Trang tin này được lập ra với mục đích duy nhất là kênh kết nối với các trang chi tộc Nguyễn Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử cội nguồn, ca ngợi những giá trị, công lao, tấm gương của anh linh tiên tổ, của các bậc tiền nhân từ đó tạo sự kết nối và hiểu biết thế sự về dòng họ Nguyễn cho hậu thế. Không mục đích chính trị, kinh doanh, vụ lợi. Với tất cả sự nhiệt tâm của ban quản trị... Trong quá trình xây dựng có thể còn sai sót , không phù hợp hoặc chưa đầy đủ, Ban quản trị rất mong bạn đọc thiện nguyện, nhiệt tình, đồng tâm góp ý, cung cấp các thông tin, bài viết, các tư liệu và địa chỉ của các trang chi tộc cùng chung sức với chúng tôi để bổ xung, chỉnh sửa cho trang kết nối của dòng họ Nguyễn được hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn! | .. |
Đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế xưa (Ảnh: baotiepthi.vn) |
I. Xây dựng một vương triều độc lập, thoát ly hẳn sự lệ thuộc với triều đình vua Lê chúa Trịnh
Thực hiện Di chúc của người cha, Nguyễn Phúc Nguyên đã từng bước ly khai hẳn với triều đình Lê - Trịnh, không chịu nộp thuế, không về chầu triều đình và đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của Trịnh Tráng vào năm 1627, mở đầu cho cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài 45 năm (từ năm 1627 đến năm 1672) với 7 chiến dịch quy mô lớn (trong đó có 6 cuộc quân Trịnh chủ động tấn công vào địa phận của chúa Nguyễn).
Về hình thức thì đây là cuộc nội chiến ác liệt, kéo dài và không phân thắng bại, nhưng nếu xét theo mục đích của cuộc chiến tranh thì thất bại lại thuộc về chính quyền Lê - Trịnh. Lâu nay có nhiều cách đánh giá khác nhau về cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn.
Đương nhiên cuộc chiến tranh đã tiêu huỷ sức người, sức của, triệt phá đồng ruộng xóm làng và dẫn đến chia cắt đất đai thống nhất của quốc gia Đại Việt thì ai cũng nhìn thấy rõ. Chúng ta không thanh minh, không bao biện cho các cuộc chiến tranh, nhất là các cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, nhưng chúng ta cũng không đánh đồng các bên tham chiến.
Có thể nói việc Nguyễn Phúc Nguyên tìm mọi cách tách Thuận Quảng ra khỏi sự kiểm soát của chính quyền Lê - Trịnh không phải chỉ là hành động cát cứ phong kiến đơn thuần vì lợi ích của dòng họ Nguyễn. Nó còn phản ánh một ước nguyện muốn thực thi những chính sách cai trị khác với đường lối chính trị của Đàng Ngoài lúc đó đang theo xu hướng hoài cổ rập khuôn thời Lê sơ, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Về mặt khách quan việc làm của Phúc Nguyên có lợi cho xu thế phát triển của lịch sử dân tộc” - GS.TSKH Vũ Minh Giang. |
Từng bước ly khai khỏi chính quyền nhà Lê
Năm 1613 được lên ngôi chúa thì ngay năm sau, năm 1614 Nguyễn Phúc Nguyên quyết định bãi bỏ Đô ty, Thừa ty, Hiến ty theo thiết chế quân sự của hệ thống chính quyền nhà Lê. Tại Chính dinh, ông đặt ra ty Xá sai (coi việc văn án từ tụng, do Đô tri và Ký lục giữ), Tướng thần lại (coi việc trưng thu tiền thóc, phát lương cho quân các đạo, do Cai bạ giữ) và Lệnh sử (coi việc tế tự, lễ tiết và chi cấp lương cho quân đội Chính dinh, do Nha uý giữ).
Bên cạnh đó còn các ty Nội Lệnh sử kiêm coi các thứ thuế, Tả Lệnh sử và Hữu Lệnh sử chia nhau thu tiền sai dư ở hai xứ về nộp Nội phủ. Tại các dinh ở ngoài, tuỳ theo từng nơi, có nơi Nguyễn Phúc Nguyên chỉ đặt một ty Lệnh sử, nhưng cũng có nơi đăt hai ty Xá sai và Tướng thần lại, có nơi kiêm đặt hai ty Xá sai và Lệnh sử để trông coi việc từ tụng của quân dân, sổ sách đinh điền và trưng thu thuế ruộng.
Đầu năm sau, năm 1615, các quy chế mới về chức trách và quyền hạn của các phủ, huyện được ban hành. Theo quy chế này thì Tri phủ, Tri huyện giữ việc từ tụng; các thuộc viên: Đề lại, Thông lại chuyên việc tra khám, Huấn đạo, Lễ sinh chuyên việc tế tự...
Năm 1620 Nguyễn Phúc Nguyên lấy lý do chúa Trịnh vô cớ gây chiến đã quyết định chấm dứt hoàn toàn việc nộp cống thuế cho chính quyền Lê - Trịnh.
Năm 1630 chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã làm theo kế của Đào Duy Từ trả lại sắc của chúa Trịnh Tráng[5]. Đây không chỉ là sự khẳng định dứt khoát chính quyền chúa Nguyễn ở phía Nam là chính quyền độc lập, cắt đứt hẳn mọi quan hệ lệ thuộc với chính quyền Lê - Trịnh ở phía Bắc, mà còn đánh dấu quá trình chuyển đổi căn bản từ một chính quyền địa phương, mang nặng tính chất quân sự của nhà Lê - Trịnh sang một chính quyền dân sự của chúa Nguyễn. Đặc biệt trong quan hệ đối ngoại chúa Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa Nguyễn đầu tiên tự xưng là An Nam Quốc Vương, quan hệ với các nước trong tư thế của một quốc gia độc lập có chủ quyền. GS Kawamoto Kuniye cho rằng điều này đã “biểu lộ nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn trước thời đại mới” [6].
Cải cách hành chính của Nguyễn Phúc Nguyên là cải cách có ý nghĩa then chốt, đặt cơ sở cho những bước tiến xa hơn và vững chắc hơn của triều đình chúa Nguyễn nói riêng và đất nước nói chung.
2. Mở rộng quan hệ giao thương với nước ngoài, thúc đẩy kinh tế hàng hoá trong nước, xây dựng Hội An thành thương cảng quốc tế phồn thịnh
Cầu Nhật Bản giữa lòng Hội An phố cổ (nguồn: ewenbell.com) |
Trong số các nước phương Đông, Nguyễn Phúc Nguyên đặc biệt quan tâm đến Nhật Bản. Ông không chỉ chủ động xúc tiến quan hệ giao thương với tư cách chính thức của vị đứng đầu nhà nước An Nam (An Nam Quốc Vương), tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương nhân đến sinh sống, buôn bán ở Hội An, mà còn cho con gái yêu quý của mình sang làm dâu một gia đình thương nhân Nhật Bản ở Nagasaki để thắt chặt hơn nữa quan hệ với giới đại thương Nhật.
Người con rể của Nguyễn Phúc Nguyên là Araki Sotaro vốn thuộc dòng dõi samurai ở Kumamoto đi thuyền mang cờ hiệu của công ty Đông Ấn Hà Lan VOC đến cập cảng Hội An vào năm 1619. Theo sách Ngoại phiên thông thư (quyển 13, tr 87-88) thì cũng đúng vào năm đó chúa Nguyễn Phúc Nguyên quyết định gả con gái của mình cho nhà lái buôn Nhật Bản tài ba này. Ít lâu sau cô đã theo người chồng Nhật Bản về định cư ở Nagasaki. Cô công chúa họ Nguyễn có cuộc sống thật sự hạnh phúc, đắc ý cùng chồng, để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trên đất Nhật Bản[8].
Mở cửa thương cảng Hội An, cấp phép cho thuyền buôn ra vào
Thương cảng Hội An tấp nập một thời (Nguồn: ngochieuphoto.com) |
Theo nghiên cứu của GS Iwao Seiichi thì từ năm 1604 cho đến năm 1634 (tương đương với thời kỳ Nguyễn Phúc Nguyên được giao là Trấn thủ dinh Quảng Nam (1602) và lên ngôi Chúa (1613-1635), Mạc phủ đã cấp 331 giấy phép đến 19 cảng thuộc khu vực Đông Nam Á(bình quân 1 cảng là 17,42 giấy phép) và 130 giấy phép đến 6 cảng thuộc khu vực tương đương với Việt Nam hiên nay (bình quân 1 cảng là 14,33 giấy phép). Riêng cảng Hội An có 86 thuyền được cấp giấy phép (chiếm 25,98% số giấy phép cấp cho toàn bộ khu vực Đông Nam Á, gấp gần 5 lần tỷ số bình quân chung cho khu vực và chiếm 66,15% số giấy phép cấp cho toàn bộ khu vực Việt Nam, gấp 6 lần tỷ số bình quân chung cho Việt Nam) [9]. |
Giáo sĩ dòng Tên người Ý là Christoforo Borri, sống tại thị trấn Nước Mặn (nay thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định) những năm 1618-1622 đã mô tả về Hội An như sau: “Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam… Chúa Đàng Trong xưa kia cho người Nhật người Hoa chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một thành phố cho tiện việc buôn bán như chúng tôi đã nói.
Thành phố này gọi là Faifo (Hội An), một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành phố, một phố người Hoa và một phố người Nhật. Mỗi phố có một khu vực riêng, có quan cai trị riêng, và sống theo tập tục riêng. Người Hoa có luật lệ và phong tục của người Hoa và người Nhật cũng vậy” [12].
Đây là sự phát triển trội vượt, một hiện tượng kinh tế - xã hội hết sức độc đáo chưa từng xuất hiện trước đó, cũng không thấy lặp lại ở bất cứ đô thị nào trên đất Việt Nam nhiều thế kỷ tiếp sau.
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc (Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển)
* Bài trích từ tham luận tại Hội thảo về chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong Lịch sử Việt Nam" ngày 18 - 19/10/2008.
Nguyễn Phúc Nguyên: |
Nguyễn Phúc Nguyên ngay từ nhỏ đã nổi tiếng là người thông minh, dũng lược. Năm 22 tuổi là tướng chỉ huy một đội thuỷ quân đánh thắng 5 chiếc tầu của ngoại bang đến cướp phá ở vùng Cửa Việt, được khen là bậc “anh kiệt”. |
-----------------------------------------------------------------
Ghi chú:
[1] Lê Quý Đôn: Toàn tập (Phủ Biên tạp lục), T.1, Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 50.
[2] Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.1, Bản dịch Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr 38.
[3] Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.1, Bản dịch đã dẫn, tr 37.
[4] Vũ Minh Giang: Đào Duy Từ đã chọn Nguyễn Phúc Nguyên để phò giúp, trong Đào Duy Từ (1572-1634) Thân thế và sự nghiệp, Thanh Hoá, 1993, tr 153.
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, TI, Bản dịch đã dẫn, tr 45- 46.
[6] GS Kawamoto Kunye: Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam trong Đô thị cổ Hội An, Nxb KHXH, H, 1991, tr 178. Trong bài viết này tác giả đã căn cứ theo sách Ngoại phiên thông thư xác định đời chúa Nguyễn Hoàng còn ghi hiệu mỗi lần khác nhau, không thống nhất, nhưng từ đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên trở đi đều tự xưng là An Nam Quốc Vương để phát triển hệ thống ngoại giao với các nước, trong đó có Nhật Bản.
[7] Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, T.1, Bản dịch đã dẫn, tr 35- 36.
[8] Tham khảo Nguyễn Quang Ngọc: Về quan hệ giao thương Nhật – Việt đầu thế kỷ XVII qua cảng Nagasaki trong Kỷ yếu Nghiên cứu Văn hoá quốc tế của Đại học nữ Chiêu Hoà số 9, năm 2003, tr 111-115. Tại Nagasaki đến nay vẫn còn dấu tích khu nhà ở, di tích mộ vợ chồng Araki, bia đá, gương đồng (là của hồi môn của công chúa), phong tục cúng giỗ và nhất là lễ hội rước công chúa hàng năm vẫn được tổ chức vào mùa thu tại khu Motoshikkui.
[9] Giấy phép Mạc phủ chính thức cấp cho thuyền buôn ra nước ngoài buôn bán được gọi là Shuinijo. Tham khảo thêm Vũ Minh Giang: Người Nhật, phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An trong Đô thị cổ Hội An, Sđd tr 206-207.
[10] Christoforo Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, Bản dịch Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1998, tr 92.
[11] Ngày 4 tháng 12 năm 1999 UNESCO đã ghi Đô thị cổ Hội An vào danh sách Di sản văn hoá Thế giới vì “Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn hoá qua các thời kỳ trong một thương cảng quốc tế” (tiêu chí 2) và “Hội An là điển hình tiêu biểu về một cảng thị châu á truyền thống được bảo tồn một cách hoàn hảo” (tiêu chí 5). Tất cả những đặc điểm nổi bật này của cảng thị Hội An đều được khẳng định một cách tuyệt đối trong thời kỳ trị vì của chúa Nguyễn Phúc Nguyên.
[12] Christoforo Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, Bản dịch đã dẫn, tr 91-92.
Nguồn tin: http://tuanvietnam.net
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn