Trang tin này được lập ra với mục đích duy nhất là kênh kết nối với các trang chi tộc Nguyễn Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử cội nguồn, ca ngợi những giá trị, công lao, tấm gương của anh linh tiên tổ, của các bậc tiền nhân từ đó tạo sự kết nối và hiểu biết thế sự về dòng họ Nguyễn cho hậu thế. Không mục đích chính trị, kinh doanh, vụ lợi. Với tất cả sự nhiệt tâm của ban quản trị... Trong quá trình xây dựng có thể còn sai sót , không phù hợp hoặc chưa đầy đủ, Ban quản trị rất mong bạn đọc thiện nguyện, nhiệt tình, đồng tâm góp ý, cung cấp các thông tin, bài viết, các tư liệu và địa chỉ của các trang chi tộc cùng chung sức với chúng tôi để bổ xung, chỉnh sửa cho trang kết nối của dòng họ Nguyễn được hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn! | .. |
Nguyễn Văn Huyên sinh ngày 16.11.1908 tại phố Thuốc Bắc, Hà Nội. Quê gốc của ông là làng Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây.
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tên thật là Nguyễn Văn Cúc (Mười Cúc), sinh ngày 1/7/1915 trong một gia đình công chức tại xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ (Hưng Yên). 4 tuổi ông mất cha, 7 tuổi mồ côi mẹ, 15 tuổi ông tham gia hoạt động cách mạng, đi rải truyền đơn rồi bị bắt, tù đày. Ông từng hai lần bị đày ra nhà tù Côn Đảo.
Nguyễn Văn Tố (1889-1947), bút hiệu Ứng Hoè, sinh ngày 5 tháng 6 năm 1889, quê ở Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Thuở nhỏ cụ học chữ Hán, sau sang Pháp học đỗ bằng Thành chung (Trung học). Về nước cụ làm việc tại trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội, chuyên về văn học cổ Việt Nam. Cụ từng làm Hội trưởng hội Trí Tri, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ trước năm 1945.
Văn Cao là một trong những nhạc sĩ thuộc lớp tiền bối của nền tân nhạc Việt Nam, cuộc đời và sự nghiệp của ông luôn gắn chặt và hoà trộn với dòng chảy lịch sử của dân tộc.
Nhân kỷ niệm 250 năm ngày sinh của Đại thi hào Nguyễn Du, danh nhân văn hóa thế giới, Báo Phú Yên xin giới thiệu đến bạn đọc thân thế, sự nghiệp của Đại thi hào.
Trong công cuộc xay dựng và gìn giữ non sông. các nhân tài họ Nguyễn đã dóng vai trò tích cực góp phần xây dựng và bảo vệ kinh đô cho đến tận ngày nay
Lần giở danh sách các vị khoa bảng tại Phong Điền dưới thời phong kiến (Địa chí Phong Điền – 2005 – Phần phụ lục), ghi nhận ngoài 65 vị đỗ cử nhân, có tới 13 vị đã đỗ đại khoa, trong đó có 6 tiến sĩ và 7 phó bảng,
Thật tuyệt vời! Chỉ với một bài sấm vỏn vẹn bốn mươi chữ mà có sức mạnh bằng cả đoàn quân, đánh đổ được một vương triều. Trong bốn ngàn năm lịch sử của nước ta chỉ có hai người “buôn vua” thành công như Lã Bất Vi thời Chiến quốc (TQ). Đó là sư Vạn Hạnh và Trần Thủ Độ (2). Họ là hai trong những nhà chánh trị lỗi lạc của nước ta.
Theo sách “Đại Việt thông sử”, Nguyễn Lý là người thôn Dao Xá (nay là xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), theo vua Lê Thái Tổ khởi binh và được trao chức Thứ thủ trong vệ kỵ binh, thuộc quân Thiết Đột.
600 năm qua, cuộc đời và sự nghiệp của Nghĩa sĩ Đại vương Nguyễn Biểu, người con Yên Hồ (Đức Thọ, Hà Tĩnh), Ngự sử của vua Trùng Quang, vẫn mãi rạng ngời cùng quê hương dân tộc, nêu cao khí tiết Hồng Lam.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) do Lê Lợi cầm đầu đã tập hợp các anh hùng hào kiệt khắp nơi và cùng với nhân dân cả nước đứng lên chống giặc. Trong cuộc hành quân để " tạo đất đứng chân" nghĩa quân Lam Sơn đã tiến vào Đổ Gia, nay là Huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; tại đây nghĩa quân đã gặp người anh hùng cầm đầu nổi dậy chống giặc đó là Nguyễn Tuấn Thiện.
Nguyễn Văn Thành (chữ Hán: 阮文誠; 1758 – 1817) là một trong những vị khai quốc công thần của triều Nguyễn đồng thời là một trong những người có công lớn nhất trong việc đưa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, trở thành vị vua đầu tiên (vua Gia Long) của triều Nguyễn - triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam (1802-1945).
Website honguyenquancong.com là kênh thông tin chính thức của dòng họ Nguyễn Huế - Gia Định, là diễn đàn trao đổi giữa các chi họ Nguyễn trong và ngoài nước. Ban quản trị Website mong muốn nhận được bài viết, hình ảnh về các hoạt động của các chi họ để trang Web thêm phong phú, đa dạng. Mọi thông tin xin gửi về địa chỉ Email: honguyenquancong@gmail.com hoặc duyhung12258@gmail.com.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491–1585) được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Lê-Mạc phân tranh cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.
Những ngày cuối năm này, Ban quản lý Di tích đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và người dân xã Lý Học (huyện Vĩnh Bảo) đang khẩn trương chỉnh trang lại toàn thể khu di tích để chuẩn bị cho lễ hội đền Trạng Trình và kỷ niệm 430 ngày mất danh nhân văn hóa lỗi lạc của đất nước (1585-2015).
Lần kỷ niệm 295 năm ngày mất của danh nhân Nguyễn Quý Đức, ngày hội Xuân tế mùng 9 tháng Giêng năm Ất Mùi 2015 ở nhà thờ Tam Đại Vương thôn Đình, phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm tấp nập hơn mọi năm. Con cháu dòng họ Nguyễn Quý trở về từ khắp mọi miền đất nước thành kính dâng nén hương lên tiên tổ, nguyện tiếp nối truyền thống "Một nhà có Tam Đại vương, cổ kim thực ít thấy".
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từ giã cuộc đời cách đây vừa tròn 430 năm (1585-2015) nhưng tên tuổi của ông còn vang vọng mãi trong lòng dân tộc. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhân vật tiêu biểu của lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI. Ông không chỉ để lại một sự nghiệp văn chương cho đời sau ngưỡng mộ mà hơn thế, cả một triết lý sống đáng để hậu thế phải suy ngẫm.
Trong các nhân vật lịch sử Việt Nam, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là một trong những thánh nhân còn để lại nhiều kỳ tích và giai thoại chứa nhiều bí ẩn khiến người đời còn phải mất nhiều công khám phá, bàn bạc và ngày càng sôi nổi.
“Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn”, đó là đánh giá của học giả Phạm Quỳnh đối với trước tác của Đại thi hào Nguyễn Du (1765 - 1820). Thời gian càng lùi xa, giá trị của Truyện Kiều càng hiện lên rực rỡ, tư tưởng của Nguyễn Du càng bộc lộ sự thâm thúy, sâu sắc mà cao hơn hết đó là tình thương con người.
Căn cứ vào các tấm bia “Nguyễn tộc thế phả ký” (phả ghi đời thứ họ Nguyễn) được khắc vào năm Ất Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 28 (1875) thì: Dòng họ Nguyễn Bá là một trong những dòng họ đầu tiên của làng Cầu Hải đã cư trú ở đây từ thời vua Hồ Quý Ly, là 1 trong 4 tộc họ Nguyễn. 3 tộc họ còn lại là họ Nguyễn Đình, Nguyễn Đức làng Kỳ Lam và Nguyễn Đình làng Nông Sơn.
Nguyễn Hữu Cảnh (1650 - 1700), người con ưu tú của vùng đất Quảng Bình nhiều nắng gió đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử tổ chức khai phá, mở mang bờ cõi, thiết lập bộ máy hành chính Nam Kỳ, xác lập chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trên vùng đất Nam bộ, định hình nước Việt Nam thành dải đất hình chữ S như ngày nay.
Hơn nửa đời người, ông trở về gắn bó với Thủ đô bởi nhận ra Hà Nội là một thành phố phát triển nhưng vẫn giữ được những nét xưa cũ.
Trong cuốn gia phả của dòng họ Nguyễn Quý hiện còn ghi lại bài thơ vịnh của Nguyễn Quý Đức nhân một lần ông ra chơi chùa Trấn Quốc. Điều đặc biệt là bài thơ này được làm theo thể “thuận nghịch độc”, nghĩa là đọc xuôi hay ngược đều thành thơ - đọc xuôi là thơ chữ Hán, đọc ngược là thơ chữ Nôm.
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông. Nơi sinh là phường Bích Câu, thành Thăng Long (Hà Nội). Lúc bấy giờ, cha là Nguyễn Nghiễm đang làm tể tướng. Bốn năm trước, người anh cùng mẹ Nguyễn Nễ cũng sinh tại đây
Vị thủy tổ của ba thi hào họ Nguyễn: Nguyễn Trãi - Nguyễn Du - Nguyễn Đình Chiểu là Thái tể triều Đinh, Định Quốc công Nguyễn Bặc. Vậy, Nguyễn Bặc là ai ?
Nguyễn Đình Chiểu tục gọi là Cụ Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù) sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ, tức ngày 1 tháng 7 năm 1822 tại làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh).