Trang tin này được lập ra với mục đích duy nhất là kênh kết nối với các trang chi tộc Nguyễn Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử cội nguồn, ca ngợi những giá trị, công lao, tấm gương của anh linh tiên tổ, của các bậc tiền nhân từ đó tạo sự kết nối và hiểu biết thế sự về dòng họ Nguyễn cho hậu thế. Không mục đích chính trị, kinh doanh, vụ lợi. Với tất cả sự nhiệt tâm của ban quản trị... Trong quá trình xây dựng có thể còn sai sót , không phù hợp hoặc chưa đầy đủ, Ban quản trị rất mong bạn đọc thiện nguyện, nhiệt tình, đồng tâm góp ý, cung cấp các thông tin, bài viết, các tư liệu và địa chỉ của các trang chi tộc cùng chung sức với chúng tôi để bổ xung, chỉnh sửa cho trang kết nối của dòng họ Nguyễn được hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn! | .. |
.
|
|
TRANG VIẾT VỀ CỤ NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU | |
Trang viết về danh nhân họ Nguyễn | |
Website:http://www.nguyendinhchieu.vn |
Nguyễn Đình Chiểu không trực tiếp ham gia đánh giặc, nhưng ông hoàn toàn tán thành hành động chống lại “thiên tử chiếu” của Trương Định và các sĩ phu chống Pháp. Ông thường có thư từ liên hệ với Trương Định và một số lãnh tụ nghĩa quân. Trương Định rất mến phục ông, thường gửi thư hỏi ý kiến về việc dân việc nước.
Trong thời gian về Ba Tri, Nguyễn Đình Chiểu đã cùng với Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt sáng tác thơ văn phê phán sự nhu nhược của triều đình và bọn quan lại bất tài, vạch mặt xấu xa của bon nho sĩ đầu hang giặc như Tôn Thọ Tường. Phong trào tự động kháng chiến của nhân dân mặc dù rất oanh liệt, nhưng không ngang sức với kẻ thù, rốt cuộc đều chịu thất bại rất đau đớn. Năm 1864, Trương Định bị phản bội, trong chiến đấu ông bị thương nặng và tự sát không để rơi vào tay địch, nghĩa quân lần lượt tan rã.
Năm 1867, giặc Pháp chiếm đóng luôn ba tỉnh miền Tây Nam Bộ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên), Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử. Phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân tạm lắng một lúc rồi lại bùng lên. Phan Liêm và Phan Tôn nổ lên ở bến Tre. Nguyễn Hữu Huân sau 7 năm bị đày ở nước ngoài trở về lại khởi nghĩa ở Mỹ Tho, Nguyễn Trung Trực khởi binh ở Rạch Giá. An hem Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự hoạt động ở ở vùng Cần Thơ, Bạc Liêu, Phan Tòng ở Ba Tri. Phong trào “đạo lành” của Trần Văn Thành ở Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc. Nguyễn Văn Bường và Phạm Văn Hớn khởi nghĩa ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn. Tuy nhiên, những phong trào cuối cùng cũng bị giặc Pháp đàn áp tan rã. Tiếp theo, năm 1873, thành Hà Nội thất thủ lần thứ nhất. Nguyễn Tri Phương trúng đạn rồi tuyệt thực chết. Năm 1882 Hà Nội thất thủ lần thứ hai, Hoàng Diệu tuẫn tiết. Năm 1885, giặc Pháp chiếm kinh thành Huế, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị xuống chiếu kêu gọi Cần Vương. Năm 1888, Hàm Nghi bị bắt và bị đi đày đi An-giê-ri. Niềm hy vọng của mọi người và của Nguyễn Đình Chiểu về công cuộc chống Pháp giữ gìn đất nước đến đây đành tắt hẳn.
Cuộc chiến đấu chống quân Pháp xâm lược của nghĩa quân tuy phải chịu thất bại vì sức yếu, thế cô, nhưng gương hy sinh anh dũng của nhân dân và các lãnh tụ nghĩa quân vẫn chói ngời trong tâm trí mọi người. Hồ Huân Nghiệp ngâm thơ trước khi chịu chết. Thủ Khoa Huân khi giặc đưa ra xử chém. Thái độ rất bình tĩnh ung dung. Phan Văn Đạt chửi mắng kẻ thù trước khi ngả xuống. Nguyễn Trung Trực trước giờ bị hành hình đã nói với kẻ thù:
“Bao giờ đất này hết cỏ thì mới hết người Nam đánh Tây”.
Lịch sử đau thương nhưng oanh liệt của dân tộc, tấm gương hy sinh anh dũng của những anh hùng liệt sĩ có tên và không tên đã làm cho Nguyễn Đình Chiểu cảm xúc hết sức mãnh liệt, ngòi bút yêu nước của ông đã phản ánh những tấm gương ấy dưới nhiều thể loại văn học khác nhau một cách đậm đà, sâu sắc, rung động lòng người. Văn thơ yêu nước là một mảng sáng tác lớn giàu tính chiến đấu, đỉnh cao trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác văn học của nhà thơ lớn Nguyễn Đình Chiểu.
Những ngày sống ở Ba Tri là những ngày đau buồn nhất của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, những người bạn đồng tâm, đồng chí phần lớn đã hy sinh, số còn lại tị địa ra Bình Thuận. Ông sống âm thầm đau khổ vừa dạy học vừa làm thuốc giúp dân. Thời gian này ông đem hết tâm huyết gửi gắm vào các bài văn tế, thơ điếu đầy bi tráng thương khóc những người vì nước quên mình và sáng tác truyện "Ngư tiều y thuật vấn đáp" có nôi dung vừa dạy thuốc vừa dạy người, trong đó nổi bật lên tâm hồn và ý chí thương dân, yêu nước, khí phách kiên tung bất khuất của chính bản thân tác giả.
Bọn thực dân Pháp rất xảo quyệt, chúng biết Nguyễn Đình Chiểu có uy tín lớn trong dân nên tìm cách mua chuộc ông. Tên Misen Pông sông (Michel Ponchon), Tỉnh trưởng Bến Tre mấy lần đến gặp Nguyễn Đình Chiểu. Hắn giả vờ xin ông nhuận sắc cho tập thơ Lục Vân Tiên mà hắn cho là một tác phẩm rất đáng trân trọng. Hắn tỏ ý muốn cấp tiền cho ông lúc tuổi già, lần cuối cùng hắn đặt vấn đề trả lại đất đai cũ nơi quê nhà của ông ở Gia Định mà chúng đã chiếm đoạt.
Những lần gặp gỡ và đối diện với tên Pông sông, Nguyễn Đình Chiểu đã tỏ thái độ dứt khoát, khảng khái từ chối mọi đề nghị của kẻ thù. Ông đã thẳng thừng trả lời Pông sông :
“Nước chung đã mất, đất riêng còn có được sao?”.
Cuối cùng Pôngsông hỏi ông muốn gì? Ông nói: Muốn được làm lễ tế nghĩa quân lục tỉnh trận vong, những người vì nước quên mình mà ông rất kính phục.
Được viên Tỉnh trưởng chấp thuận, tại chợ Đập (chợ Ba Tri ngày nay), Nguyễn Đình Chiểu đã cùng với nhân dân công khai tổ chức trọng thể lễ tế nghĩa sĩ lục tỉnh trận vong. Bài “ Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh” do ông sáng tác và đọc tại buổi lễ làm cho hàng ngàn người có mặt xúc động không cầm được nước mắt. Buổi lễ đã gây ấn tượng sâu sắc trong nhân dân về “Khúc ca của những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang” và đã trở thành sự kiện có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nhân dân ở nhiều nơi trong vùng kể từ khi giặc Pháp hoàn thành việc chiếm đóng Nam Kỳ lục tỉnh.
Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn rầu về cảnh vợ mất, nước mất nhà tan đã bấy lâu, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng. Trong những ngày cuối cùng, nhà thơ sống trong cảnh nghèo nàn thanh bạch với sự yêu thương đùm bọc của nhân dân. Ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý, (tức là ngày 3-7-1888),
Nguyễn Đình Chiểu qua đời trong một căn nhà nhỏ tại làng An Bình Đông (gần chợ Ba Tri, thuộc Trị trấn Ba Tri ngày nay), thọ 66 tuổi. Nhân dân, bạn bè, học trò và con cháu đưa đám ma ông rất đông, khăn tang trắng cả cánh đồng An Đức nơi ông yên nghỉ cuối cùng cách chợ Ba Tri 1 cây số.
Từ khi Nguyễn Đình Chiểu mất cho đến nay, hàng năm đến ngày giỗ ông, nhân dân trong vùng Ba Tri và nhân sĩ trí thức có tinh thần dân tộc yêu nước ở khắp nơi đều tổ chức kỷ niệm ông với nhiều hình thức tưởng nhớ, đậm đà lòng yêu mến, một con người tiêu biểu cho lòng yêu nước và đạo lý làm người Việt Nam, cuộc đời tuy chịu nhiều đau khổ nhưng tiết tháo rất thanh cao.
Cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với vận mệnh của đất nước và nhân dân trong cả một giai đoạn lịch sử bi tráng của dân tộc. Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu phản ánh trung thành biến cố của cả một thời dại, tiêu biểu cho tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân ta trong nửa cuối thế kỷ 19. Nhà thơ lớn của dân tộc.
Nguyễn Đình Chiểu, xứng đáng là ngọn cờ đầu của dòng văn học yêu nước Việt Nam cận đại
Nguyễn Đình Chiểu thân thế và sự nghiệp – Chi hội văn học nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu - Huyện Ba Tri – Câu Lạc Bộ thơ - 2002
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn