Trang tin này được lập ra với mục đích duy nhất là kênh kết nối với các trang chi tộc Nguyễn Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử cội nguồn, ca ngợi những giá trị, công lao, tấm gương của anh linh tiên tổ, của các bậc tiền nhân từ đó tạo sự kết nối và hiểu biết thế sự về dòng họ Nguyễn cho hậu thế. Không mục đích chính trị, kinh doanh, vụ lợi. Với tất cả sự nhiệt tâm của ban quản trị... Trong quá trình xây dựng có thể còn sai sót , không phù hợp hoặc chưa đầy đủ, Ban quản trị rất mong bạn đọc thiện nguyện, nhiệt tình, đồng tâm góp ý, cung cấp các thông tin, bài viết, các tư liệu và địa chỉ của các trang chi tộc cùng chung sức với chúng tôi để bổ xung, chỉnh sửa cho trang kết nối của dòng họ Nguyễn được hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn! | .. |
Ngay từ lúc thiết kế tuyến phòng thủ trung tâm, triều Nguyễn đã tính toán trước những phươngán mà quân đối phương có thể tấn công. Để vào được bên trong kinh thành, cần phải vượt qua nhiều chướng ngại bằng đường thủy, đường bộ và hệ thống pháo đài của kinh thành. Vòng bảo vệ ngoài cùng là hộ thành hà. Đầu tiên, sông Hương chính là lớp bảo vệ tự nhiên ở mặt nam kinh thành. Năm 1805, vua Gia Long cho đào 3 con sông ở các mặt còn lại tạo thành tuyến phòng thủ bao quanh 4 mặt kinh thành dài 12 km. Đây là sông Đông Ba ở mặt đông của kinh thành. Mục đích cho đào Hộ Thành Hà nhằm tạo tuyến phòng thủ đường thuỷ ngăn chặn bộ binh đối phương vượt qua để vào kinh thành.Kế tiếp là 1 lớp hộ thành đắp bằng đất, chính là đường phố xung quanh kinh thành ngày nay. Đây là phần đất tính từ sát bờ sông cho đến các hào nước bên trong. Chướng ngại tiếp theo là Hộ Thành Hào. Đây hệ thống hào nước chạy xung quanh 4 mặt kinh thành. Theo sách Đại Nam thực lục, các hào này có mực nước sâu trung bình là 1,5m. Nếu không vượt qua hệ thống Hộ thành hào, quân đối phương có thể đi qua những chiếc cầu đá dẫn vào cổng kinh thành. Tuy nhiên, những chiếc cầu này có diện tích hẹp, hạn chế số lượng người đi qua.
Sự quan tâm đặc biệt cho hoạt động quân sự của các vị vua Triều Nguyễn còn được thể hiện ở cửu đỉnh đặt trước sân Thái Miếu, nơi tập hợp những hoạ tiết thể hiện bức tranh toàn cảnh của đất nước Việt Nam thống nhât thời nhà Nguyễn. Có rất nhiều hình ảnh về quân sự được thể hiện trên cửu đỉnh, trong đó Thuận An Hải Khẩu… và Hải Vân Quan thuộc hệ thống phòng thủ từ xa của kinh thành Huế.
Trong tuyến phòng thủ đường bộ, Huế được bảo vệ bởi 2 tấm lá chắn là đèo Ngang ở phía bắc và đèo Hải Vân ở phía Nam.
Hải Vân quan nằm cách kinh thành Huế 90km, Đèo Hải Vân, là ranh giới tự nhiên của Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng,. Đây là những lô cốt của người Pháp xây dựng sau này.Trong suốt chiều dài lịch sử triều Nguyễn, quan ải nổi tiếng hiểm trở này được xem là cửa ngõ mặt nam của kinh thành Huế. Từ đây có thể bao quát cả 1 vùng biển Đông, bán đảo Sơn Trà của Đà Nẵng và 1 phần của Thừa Thiên Huế. Ngày nay, nơi đây đã trở thành 1 địa điểm thu hút nhiều khách du lịch. Trên đỉnh đèo Hải Vân hiện vẫn còn dấu vết của Hải Vân Quan.Tại đây vẫn còn tấm biển bằng đá trên cửa sau đề “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” nghĩa là cửa ải hung vĩ bậc nhất trong thiên hạ. Còn cửa trước là tấm biển đề ba chữ Hải Vân Quan. Từ thông tin trên 2 tấm biển này, có thể biết Hải Vân Quan được xây dựng vào năm 1826 (tức năm Minh Mạng thứ 7). Tuy vậy, bức tường thành của Hải Vân Quan thì không còn nữa.
Thời đó, người ta không thể đi qua đèo mà không có phép của quan trấn thủ Hải Vân.. Bởi triều đình sau đó đã cho xoá sổ tất cả những con đường khác đi qua đèo, cấm cả thuyền bè trên biển, biến Hải Vân Quan thành con đường độc đạo. Mãi sau này, người ta mới xây con đường qua lại khu vực này. Chính vì xác định được vị trí chiến lược của núi Hải Vân mà các vị vua triều Nguyễn đã ra sức củng cố địa bàn này nhằm quản lý chặt chẽ hơn và biến nó trở thành một cứ điểm mạnh trong hệ thống phòng thủ quanh kinh đô Huế.
Năm 1859, sách đại nam thực lục cho biết: quân Pháp “chiếm giữ đồn Chân Sảng, đường ải Hải Vân bị nghẽn vua sai thống chế Nguyễn Trọng Thao sung chức đề đốc quân vụ, đem phó vệ úy là Nguyễn Hợp, quản cơ là Phạm Tân mang 300 lính Tuyển phong đi chống đánh”. Như vậy thời điểm đó chiến tranh đã nổ ra ở núi Chân Sảng, thuộc địa phận dãy Hải Vân; và thành lũy cao điểm Hải Vân trở thành tiền đồn, điểm tập kết quân đội chặn giặc tiến vào kinh đô, góp phần đánh lui quân Pháp ra khỏi Đà Nẵng.Việc phòng thủ kinh đô ở phía Nam không chỉ có Hải Vân Quan. Hệ thống này trải dài từ đây cho đến Lăng Cô ở dưới chân đèo. Vị thế của Hải Vân đặc biệt quạn trọng trong thế liên hoàn chiến lược với các cửa biển khác của kinh đô. Với lợi thế quan trọng này, tại Hải Vân Quan, triều đình cho trang bị ống nhòm để quan sát cả khu vực hải phận rộng lớn, nếu thấy thuyền lạ xâm nhập hải phận sẽ kịp thời cấp báo về kinh thành.
Nguồn tin: http://kpvn.com.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn